- Advertisement -spot_img

TRƯƠNG QUỐC VINH VÀ CON ĐƯỜNG NGHỆ THUẬT ĐẦY NƯỚC MẮT

Subcribe OnDemandViet Channel Để Theo Dõi Những Tin Độc Quyền Miễn Phí: Click Here

Nên đọc

Trương Quốc Vinh (1956 – 2003), nghệ danh thường gọi là Leslie Cheung, là một diễn viên, ca sĩ và nhạc sĩ huyền thoại người Hồng Kông. Không chỉ thành công trên con đường nghệ thuật, anh còn được biết đến như một biểu tượng được yêu thích và có tầm ảnh hưởng nhất Châu Á.

Trương Quốc Vinh, Trương Quốc Vinh: Ký ức nào cũng vương dấu lệ rơi
Nghệ sĩ Trương Quốc Vinh

Năm 2005, anh đứng đầu danh sách bình chọn cho hạng mục Diễn viên được yêu thích nhất trong 100 năm lịch sử điện ảnh Trung Quốc, anh còn là ngôi sao Châu Á duy nhất lọt top 5 “Global Music Icon” của đài CNN năm 2010, vinh dự xếp ở vị trí thứ ba sau Michael Jackson và The Beatles.

Trương Quốc Vinh và một tuổi thơ không có tình thương

Sinh ra trong một gia đình có tới mười người con, dẫu cho điều kiện kinh tế có khấm khá nhưng cố nghệ sĩ lại cực kỳ thiếu thốn sự quan tâm từ cha mẹ. Tên trong giấy khai sinh của anh là Trương Phát Tông, về sau mới được cha mẹ đổi thành Trương Quốc Vinh, cái tên đã đi vào hồi ức của không biết bao nhiêu thế hệ.

Cha anh là một thợ may âu phục rất nổi tiếng, sự tài hoa mang lại cho ông thành công và tiền bạc. Có lẽ Trương Quốc Vinh đã phần nào thừa hưởng được nét tài hoa ấy từ cha nhưng là theo một con đường khác.

Thế nhưng, cha anh lại không phải là một người chồng, người cha tốt. Cuộc đời của ông ấy chỉ xoay quanh tiền bạc và đắm chìm trong ham mê về sắc đẹp, thói trăng hoa đã ngấm sâu vào bản chất con người ông.

Tuổi thơ của anh là sự thiếu thốn tình thương và chăm sóc từ cha mẹ, bên cạnh anh mỗi ngày là người vú nuôi già, số lần anh được gần gũi và cảm nhận không khí gia đình dường như chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Trương Quốc Vinh, Trương Quốc Vinh: Ký ức nào cũng vương dấu lệ rơi
Trương Quốc Vinh đã có một tuổi thơ không mấy êm đẹp

Trương Quốc Vinh từng chia sẻ về tuổi thơ ấy trên một chương trình radio năm 1995 của Hồng Kông, rằng:

“Tôi nhớ rõ thời niên thiếu của mình chưa bao giờ được sống với cha mẹ. Bây giờ khi nhắc tới thời gian đã qua, chỉ có thể coi như chuyện quá khứ. Không còn cảm thấy chua xót nữa, cũng không còn cảm thấy buồn.

Tôi thấy mình như một đứa trẻ mồ côi, không cha mẹ chỉ vì sự ích kỷ của người lớn. Đôi khi bị ba mẹ đánh cũng là điều tốt, nhưng ngay cả việc này tôi đều không có bị chứ đừng nói tới ao ước ngày chủ nhật được ba cầm theo máy ảnh dẫn đi chụp ảnh.”

Không chỉ thiếu thốn tình thương, anh còn phải chứng kiến sự trăng hoa của cha mình trong suốt nhiều năm và đỉnh điểm là cuộc hôn nhân đổ vỡ giữa cha mẹ. Đối với một đứa trẻ giàu tình cảm như anh, những điều ấy đã gây nên nỗi ám ảnh suốt một đời.

Năm mười ba tuổi, anh được gửi sang Anh du học và phải liên tục chịu đựng nạn phân biệt chủng tộc tại nơi này. Cho đến khi đang học cuối năm nhất đại học, Trương Quốc Vinh mới trở về Hồng Kông vì cơn bạo bệnh của cha mình.

Những dấu ấn đầu tiên trên con đường nghệ thuật

Năm 1977, Trương Quốc Vinh tham gia và giành giải nhì tại cuộc thi Âm nhạc Châu Á, sau đó anh ký hợp đồng với hãng truyền hình RTV và chính thức bước chân vào con đường nghệ thuật.

Hai album đầu tay của anh là Day Dreaming (1977) và Tình nhân tiễn (1979) không nhận được nhiều sự chào đón từ khán giả, thậm chí anh còn từng bị đuổi khỏi sân khấu. Những ngày đầu sự nghiệp không thuận lợi lại chính là lý do giúp anh nỗ lực hơn để trở thành biểu tượng của làng nhạc nhẹ Hồng Kông.

Năm 1978, Trương Quốc Vinh có vai diễn đầu tay trong phim The Erotic Dream of the Red Chamber, một bộ phim với khá nhiều chi tiết 18+ đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến bước đường sự nghiệp của anh.

Trương Quốc Vinh, Trương Quốc Vinh: Ký ức nào cũng vương dấu lệ rơi
Trương Quốc Vinh thời trẻ

Về sau, anh từng phát biểu trước giới báo chí rằng tại thời điểm nhận lời tham gia bộ phim, anh không hề biết đến tính “nhạy cảm” của tác phẩm khiến cho dư luận không ủng hộ.

Năm 1982, Trương Quốc Vinh gia nhập Capital Artists khi kết thúc hợp đồng với RTV, đây cũng là lúc anh bắt đầu hợp tác với Trần Thục Phân, người đã theo làm quản lý cho anh mãi đến sau này.

Năm 1983, anh có bài hit đầu tiên là Gió tiếp tục thổi và một năm sau, Monica lọt vào danh sách mười bài hát được yêu thích nhất, trở thành đại diện cho một thể loại nhạc mới của Hồng Kông giữa thập niên 1980.

Trương Quốc Vinh, Trương Quốc Vinh: Ký ức nào cũng vương dấu lệ rơi
Trương Quốc Vinh rất thành công trong sự nghiệp ân nhạc

Âm nhạc của anh dần thu hút được sự quan tâm từ khán giả, những ca khúc nổi bật giai đoạn này của Trương Quốc Vinh phải kể đến là Ngọn gió tự do (album Chung tình vì em, 1985), Có ai đồng thanh và Đương niên tình cùng trong album Ái hỏa, 1986.

Trương Quốc Vinh được xem như người đi tiên phong và góp phần đưa dòng nhạc Cantopop của Hồng Kông lên tầm đỉnh cao, anh còn được ưu ái đặt cho biệt danh là “Elvis của Hồng Kông”.

Bên cạnh sự nghiệp âm nhạc, Trương Quốc Vinh còn thử sức với lĩnh vực điện ảnh. Trong hai năm liên tiếp là 1980 và 1981, anh đảm nhận các vai phụ trong hai bộ phim Encore và Thất nghiệp sinh.

Thất nghiệp sinh cũng là bộ phim mang về cho anh đề cử ở hạng mục Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông năm 1981, một sự công nhận đối với tài năng diễn xuất của anh.

Năm 1982, Liệt hỏa thanh xuân do anh đóng vai chính được rất nhiều chú ý từ các nhà phê bình phim lẫn giới truyền thông thời bấy giờ. Phim cũng mang về cho Trương Quốc Vinh đề cử giải Nam diễn viên xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông.

Bắt đầu thành công và gặt hái vinh quang

Năm 1986, Trương Quốc Vinh gia nhập Cinepoly Records Hong Kong và phát hành album tiếp theo là Summer Romance (1987). Album này đã mang về cho anh danh hiệu CD bán chạy nhất và Album bán chạy nhất trong năm.

Thành công của Summer Romance càng giúp đưa sự nghiệp âm nhạc của Trương Quốc Vinh vươn lên tầm đỉnh cao, trở thành một trong hai thần tượng của làng Cantopop lúc bấy giờ bên cạnh Đàm Vịnh Lân.

Dù không sở hữu giọng hát thật sự xuất sắc, anh luôn biết tạo bầu không khí riêng có sức hấp dẫn lớn đối với khán giả. Trong âm nhạc, anh gây ấn tượng mạnh với đa dạng phong cách từ quyến rũ, bao liệt cho đến thư sinh, trưởng thành.

Trương Quốc Vinh, Trương Quốc Vinh: Ký ức nào cũng vương dấu lệ rơi
Những tháng năm đầu tiên không mấy suôn sẻ trong sự nghiệp

Năm 1988, ca khúc Im lặng là vàng được phát hành và trở thành một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của Trương Quốc Vinh. Các album như Virgin Snow (1988), Leslie ’89 (1989), Final Encounter (1989), và Salute (1990) đều là những album nổi tiếng khác mà Trương Quốc Vinh cộng tác với Cinepoly Records.

Salute còn là một dự án đặc biệt của Trương Quốc Vinh khi anh dành toàn bộ số tiền thu được từ album này để ủng hộ cho Học viện đào tạo Nghệ thuật biểu diễn Hồng Kông, sau này trở thành Quỹ học bổng nhằm tưởng nhớ anh.

Tuy nhiên, đến năm 1989 anh bất ngờ tuyên bố ý định giã từ sự nghiệp âm nhạc khi đang ở thời kỳ đỉnh cao, sau đó tổ chức Nhạc hội từ giã sự nghiệp tại Đại hí viện Hồng Kông với tổng cộng 33 đêm diễn.

Năm 1990, Trương Quốc Vinh rời Hồng Kông và nhập cảnh sang Canada và trở thành công dân Canada hai năm sau đó nhưng được một thời gian anh lại rời Canada để quay về Hồng Kông.

Trương Quốc Vinh, Trương Quốc Vinh: Ký ức nào cũng vương dấu lệ rơi
Anh là một người nghệ sĩ luôn hết mình vì công việc

Khoảng thời gian từ 1986 đến 1989, anh còn tham gia vào rất nhiều bộ phim điện ảnh và đạt được những thành công không nhỏ. Anh hùng bản sắc (1986) với sự tham gia của Châu Nhuận Phát, Trương Quốc Vinh, Địch Long đã trở thành bộ phim đi đầu cho thể loại “tam kiệt” của Hồng Kông thập niên 1980.

Năm 1987, anh tham gia đóng Anh hùng bản sắc II và Yên chi khâu cùng với Mai Diễm Phương, Thiện nữ u hồn cùng với Vương Tổ Hiền. Đây là các bộ phim đã đem về cho anh hai Đề cử nam diễn viên xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông và Liên hoan phim Kim Mã.

Sau vai diễn trong Thiện nữ u hồn, biệt danh Ca Ca cũng đi theo Trương Quốc Vinh cho đến mãi sau này, người hâm mộ vẫn yêu mến gọi anh bằng cái tên thân mật ấy.

Thành công của Anh hùng bản sắc và Yên chi khâu còn giúp anh nhận được rất nhiều sự ủng hộ của khán giả Nhật Bản và Hàn Quốc, thậm chí số lượng người hâm mộ của anh ở Nhật Bản còn nhiều hơn so với Trung Quốc.

Trương Quốc Vinh và thời kỳ đỉnh cao trong diễn xuất

Từ giữa thập niên 1980 đến giữa thập niên 1990 được coi là thời kì vàng son của nền điện ảnh Hồng Kông, đồng thời cũng là giai đoạn mà diễn xuất của Trương Quốc Vinh đạt đến đỉnh cao.

Anh được công nhận là một diễn viên tài năng xuất chúng, người có thể đảm nhận nhiều loại nhân vật khác nhau bằng lối “diễn như không diễn”, đặc biệt với những vai trong các bộ phim nghệ thuật.

Năm 1991, bộ phim nghệ thuật A Phi Chính Truyện của đạo diễn nổi tiếng Vương Gia Vệ ra đời và thành công vang dội, vai “badboy” Yuddy trong bộ phim này đã mang đến cho anh giải Nam diễn viên xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông.

Trương Quốc Vinh, Trương Quốc Vinh: Ký ức nào cũng vương dấu lệ rơi
Anh chàng “badboy” Yuddy trong A Phi Chính Truyện

Đến năm 1994, anh đảm nhận vai Âu Dương Phong trong bộ phim về đề tài võ thuật Đông Tà Tây Độc, đánh dấu lần hợp tác tiếp theo của bộ đôi Trương Quốc Vinh – Vương Gia Vệ. Tác phẩm đã mang về cho Trương Quốc Vinh giải Nam diễn viên xuất sắc nhất tại Hong Kong Film Critics Society Awards.

Năm 1997, Xuân Quang Xạ Tiết do Trương Quốc Vinh và Lương Triều Vỹ thủ vai chính đã mang đến nhiều cảm xúc trong lòng khán giả, tác phẩm được xem như một trong những bộ phim về tình yêu đồng tính xuất sắc nhất thế giới và một trong những bộ phim hay nhất của điện ảnh Châu Á mọi thời đại.

Tuy nhiên, tài năng diễn xuất của anh lại được biết đến nhiều nhất với vai diễn Trình Điệp Y trong Bá Vương Biệt Cơ (1993), một tác phẩm tâm đắc nhất đạo diễn Trần Khải Ca. Đây cũng là lần đầu tiên một diễn viên Hồng Kông lại được mời tham gia vai chính cho một bộ phim của Trung Quốc đại lục.

Bá Vương Biệt Cơ đã đoạt giải Cành Cọ Vàng tại Liên hoan phim Cannes và giành hai đề cử Phim nước ngoài hay nhất, Quay phim xuất sắc nhất tại giải Oscar. Lối diễn xuất thần trong phim đã đưa tên tuổi Trương Quốc Vinh lên hàng ngôi sao quốc tế.

Trương Quốc Vinh, Trương Quốc Vinh: Ký ức nào cũng vương dấu lệ rơi
Vai diễn để đời của Ca Ca trong Bá Vương Biệt Cơ

Sau Bá Vương Biệt Cơ, đến năm 1996 anh còn cùng Củng Lợi tham gia đóng trong Phong Nguyệt, một bộ phim khác của đạo diễn Trần Khải Ca. Tác phẩm cũng giành được đề cử giải Cành Cọ Vàng tại Liên hoan phim Cannes.

Những thành tựu mà Trương Quốc Vinh đạt được với dòng phim nghệ thuật chính là minh chứng rõ rệt nhất cho tài năng của anh. Những bộ phim nổi bật khác của anh là Bạch Phát Ma Nữ truyện (1993), Kim chi ngọc diệp và Dạ bán ca thanh (cùng năm 1995).

Trương Quốc Vinh luôn là cái tên “bảo chứng” cho doanh thu phòng vé của các bộ phim có anh tham gia. Từ năm 1990 đến 1998, 13 trong tổng số 39 phim của anh đã lọt vào danh sách 10 phim có doanh thu phòng vé cao nhất.

Dù đã giã từ sân khấu âm nhạc, giai đoạn 1989 đến 1995 Trương Quốc Vinh vẫn đều đặn sáng tác ca khúc. Anh đã sáng tác hơn mười bài hát trong thời gian này và giành được nhiều đề cử cũng như giải thưởng nhạc phim tại các liên hoan khác nhau.

Hành trình trở lại với âm nhạc của Trương Quốc Vinh

Năm 1995, Trương Quốc Vinh cộng tác với Rock Records và bắt đầu quay trở lại làng nhạc Hồng Kông. Album Beloved ra đời rồi ngay lập tức đạt được thành công rực rỡ về doanh thu với danh hiệu IFPI Best Selling Album.

Một năm sau, anh phát hành album Red, một album hòa trộn nhiều thể loại nhạc khác nhau như Jazz, R&B và Hip Hop, tạo nên một phong cách âm nhạc khác lạ hoàn toàn so với trước đây của Trương Quốc Vinh.

Năm 1997, Trương Quốc Vinh tổ chức nhạc hội đầu tiên kể từ khi quay trở lại là World Tour 97, kéo dài từ 12 tháng 12 năm 1996 đến 17 tháng 6 năm 1997. Phần trình diễn được yêu thích nhất của nhạc hội là ca khúc Red với phân đoạn Trương Quốc Vinh khiêu vũ cùng một vũ công nam trên đôi giày cao gót màu đỏ.

Trương Quốc Vinh, Trương Quốc Vinh: Ký ức nào cũng vương dấu lệ rơi
Anh là một nghệ sĩ với lối trình diễn đa dạng đầy biến hóa

Năm 1999, Trương Quốc Vinh thành lập công ty âm nhạc Apex Music và ký một hợp đồng với Universal Music Group (UMG), phát hành ba album bao gồm Cùng em đếm ngược (1999), Đại nhiệt (2000) và Untitled (2000).

Những bài hát nổi bật của anh trong thời gian này là Chuồn chuồn ngang quaĐại nhiệt và Tay trái tay phải. Ca khúc đoạt giải Bài hát yêu thích trọn đời tôi của CASH – Tôi được xem là một bài hát tự thuật của chính anh.

Năm 2000, Trương Quốc Vinh được trao tặng giải thưởng Golden Needle, giải thành tựu trọn đời của Cantopop. Ca khúc Monica của anh cũng được tôn là ca khúc của thế kỷ bởi tầm ảnh hưởng từ nó.

Cùng năm này, Trương Quốc Vinh còn được mời làm Đại sứ âm nhạc đầu tiên của Hiệp hội sáng tác Hồng Kông (CASH) và thực hiện bài hát chủ đề cho CASH Golden Sail Award.

Trương Quốc Vinh và những năm tháng cuối cuộc đời

Năm 2000, anh tổ chức Passion Tour, chuỗi nhạc hội cuối cùng của chính mình bao gồm 43 buổi trình diễn, bắt đầu từ 31 tháng 7 năm 2000 đến 16 tháng 4 năm 2001 và được coi là nhạc hội xuất sắc nhất của Trương Quốc Vinh.

Mặc kệ những công kích buổi ban đầu của giới báo chí và truyền thông Hồng Kông, Passion Tour vẫn gặt hái thành công rực rỡ và được chào đón nhiệt liệt ở khắp nơi, trong đó có Nhật Bản, nơi anh tổ chức tới mười buổi trình diễn.

Passion Tour cũng đem về cho Trương Quốc Vinh giải Thành tựu quan trọng của Mingpao Weekly và Thành tựu âm nhạc của Chinese Pop Music Media Association.

Những năm cuối thập niên 1990 đánh dấu bước ngoặt trong sự thay đổi lối diễn xuất của Trương Quốc Vinh. Anh đóng vai một người cha nghèo nhận nuôi một đứa trẻ trong Lưu tinh ngữ (1999) còn trong Thương Vương (2000) anh lại vào vai một sát thủ bất ổn tâm lý và tìm thấy niềm thỏa mãn bằng cách giết chóc.

Sự nhập vai cực kỳ thuyết phục của anh thậm chí đã khiến người hâm mộ Trung Quốc có một cụm từ dành tặng riêng anh đó là “biến thái theo kiểu Trương Quốc Vinh”.

Trương Quốc Vinh, Trương Quốc Vinh: Ký ức nào cũng vương dấu lệ rơi
Tạo hình của Trương Quốc Vinh trong Đông Tà Tây Độc

Năm 2002, anh tham gia đóng Dị độ không gian trong vai một bác sĩ tâm thần khám phá ra vấn đề tâm lý của mình trong quá trình chữa trị cho bệnh nhân. Đây là bộ phim cuối cùng của Trương Quốc Vinh và khán giả tin rằng anh đã đưa cảm xúc thật của mình vào nhân vật trong phim.

Anh cũng thử sức trong vai trò đạo diễn bằng bộ phim đầu tay tuyên truyền chống hút thuốc lá dài 45 phút Yên phi yên diệt (2000) với sự tham gia của Mai Diễm Phương, Mạc Văn Uý và Vương Lực Hoành.

Năm 2002, Trương Quốc Vinh bắt đầu thực hiện Stealing Heart, tuy nhiên bộ phim này đã không thể hoàn thành bởi sự ra đi hết sức đột ngột của anh.

Trương Quốc Vinh tự sát vào ngày 1 tháng 4 năm 2003, anh nhảy xuống từ tầng 24 của khách sạn Mandarin thuộc quận trung tâm của Hồng Kông. Trong bức di thư mà cố nghệ sĩ để lại nói rằng nguyên nhân cái chết là do trầm cảm, anh mất lúc 46 tuổi.

“Tuyệt vọng! Cảm ơn tất cả bạn bè tôi. Cảm ơn giáo sư Felice Lieh-Mak. Năm nay quá khó khăn. Tôi không thể chịu đựng thêm nữa. Cảm ơn anh Đường. Cảm ơn gia đình tôi. Cảm ơn chị Fat. Cả cuộc đời tôi chưa làm gì sai. Tại sao mọi thứ lại trở nên thế này?”

Sự ra đi của Trương Quốc Vinh đã gây một cú sốc lớn cho làng giải trí Châu Á và thế giới, những tin đồn về nguyên nhân cái chết lan nhanh chóng mặt. Sau ngày anh mất, nhiều nhà phân tích đã nhận định đây cũng chính là thời kỳ lụi tàn của một kỷ nguyên.

Đời tư và chuyện tình cảm của nam nghệ sĩ

Tuy có một sự nghiệp thành công rực rỡ nhưng cuộc đời Trương Quốc Vinh lại nhuốm đầy nỗi buồn cô độc, kể từ khi sinh ra cho đến lúc lìa trần. Áp lực bị báo chí và giới truyền thông săn đón, bủa vây cùng những nghi kỵ về mối tình đồng tính giữa anh và Đường Hạc Đức đã gây cho anh không ít muộn phiền.

Anh từng có hai người bạn gái là Mao Thuấn Quân và Nghê Thi Bội, cũng từng có ý định kết hôn với Mao Thuấn Quân khi còn trẻ, tuy nhiên sau đó chuyện giữa hai người lại không thành.

Ngoài ra, Trương Quốc Vinh không có thêm bất kỳ một người phụ nữ nào khác trong cuộc đời, đây chính là lúc mà truyền thông bới móc về mối quan hệ giữa anh và người tri kỷ lâu năm Đường Hạc Đức.

Trương Quốc Vinh, Trương Quốc Vinh: Ký ức nào cũng vương dấu lệ rơi
Chuyện tình đồng tính của Trương Quốc Vinh và Đường Hạc Đức

Trong một phần trình diễn thuộc World Tour 1997, Trương Quốc Vinh giới thiệu mẹ của anh đang ngồi ở hàng ghế khán giả và xin tặng bài hát kế tiếp cho bà. Liền sau đó anh giới thiệu Đường Hạc Đức, người ngồi cùng hàng ghế với mẹ mình như “người tôi dành nhiều tình cảm nhiều nhất sau mẹ” và hát tặng bài hát Ánh trăng nói hộ lòng tôi.

Năm 2001, Trương Quốc Vinh đã cố ý nắm lấy tay Đường Hạc Đức đi thẳng không ngoái đầu lại khi phát hiện mình bị phóng viên bám theo. Sau này, tấm ảnh về khoảnh khắc đó được gọi là “cái nắm tay thế kỷ”, hay “cái nắm tay kiên định nhất”, “cái nắm tay cảm động nhất.”

Người nghệ sĩ với nhân cách cao đẹp

Suốt những năm tháng sự nghiệp, Trương Quốc Vinh luôn sống rất bình dị, tác phong nghiêm túc với công việc và chưa từng đòi hỏi yêu sách gì. Anh đặc biệt rất đúng giờ, khi đến trường quay cũng chẳng cần bất cứ người trợ lý nào đi cùng.

Có lần, anh được mời đóng phim và sẵn sàng nhận mức thù lao tượng trưng một HKD khi biết ê-kíp Lưu tinh ngữ gặp nhiều khó khăn. Dù nhận thù lao thấp nhưng Trương Quốc Vinh vẫn đi quay rất miệt mài và còn theo cả đoàn phim khắp nơi để quảng bá.

Trương Quốc Vinh, Trương Quốc Vinh: Ký ức nào cũng vương dấu lệ rơi
Tên tuổi của anh sẽ sống mãi với thời gian

Chính nhờ sự chân thành, nhiệt huyết, tác phong làm việc nghiêm túc và một lối sống giản dị không xô bồ đã góp phần tạo nên sức ảnh hưởng to lớn của Trương Quốc Vinh, giúp anh trở thành tượng đài trong lòng rất nhiều người hâm mộ.

Đối với những ai đã trót yêu mến Trương Quốc Vinh, dẫu cho bao nhiêu năm nữa trôi qua thì cái tên ấy vẫn sẽ sống mãi trong trái tim họ. Không chỉ đơn thuần là một nghệ sĩ thành công và đa tài, anh còn là biểu tượng bất diệt, một nỗi đau kéo dài của những tháng năm từng được chứng kiến anh tồn tại.

 

Nguồn: Phạm Hân – revelogue.com
- Advertisement -spot_img

Dành cho bạn

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

- Advertisement -spot_img

Tin mới